T15. TỤNG TÂY HỒ PHÚ

TỤNG TÂY HỒ PHÚ
(Nguyễn Huy Lượng)

Lạ thay cảnh Tây Hồ
Lạ thay cảnh Tây Hồ
Trộm nhớ thuở đất chia chín cõi;
Nghe rằng đây đá mọc một gò.
Trước Bạch Hồ vào ở đó làm hang, long vương trở nên vùng đại trạch;
Sau Kim Ngưu do vào đây hoá vực, Cao vương đào chặn mạch hoàng đô.
Tiếng nghe gọi Dâm Đàm, Lãng Bạc;
Cảnh ngó in tinh chử, băng hồ.
Sắc dờn dờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích nổi lên dòng lẻo lẻo;
Hình lượn lượn u ốn vòng câu bạc, tưởng v ầng ngân rơi xuống mảnh nhò nhò.
Dư nghìn mẫu nước trời lẫn sắc;
Trải bốn bên hoa cỏ nhiều mùa.
Áng đất phơi mỏ phượng còn in, kẻ rằng đài thượng nguyệt;
Vũng nước hút hàm rồng chẳng cạn, người gọi trản trung tô.
Toà thạch tháp nọ nơi tiên để báu;
Chốn thổ đôi kia chỗ khách chôn bùa.
Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời, tay lưới phép còn ghi công bắt hổ;
Quán Chân Võ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam rùa.
Kề bến nọ quán Thiên Niên lớp lớp;
Cách ngàn kia ghềnh Vạn Bảo nhấp nhô.
Toà kim liên sóng nổi mùi hương, chùa Trấn Quốc tưởng in vùng tĩnh phạn;
Hàng cổ thụ gió rung bóng lục, tràng Phụng Thiên nhận sẵn thú Nghi Vu.
Dấu Bố Cái rêu in nền phủ;
Cảnh Bà Đanh hoa khép cửa chùa.
Trông mơ màng dường đỉnh Thứu nơi kia, vài tổ thước cuối làng kêu chích chích;
Nghe phảng phất ngỡ động đào mái nọ, mấy tiếng gà trong trại gáy o o.
Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút;
Ghềnh Nhật Chiêu sóng giật ỳ ồ.
Rập rềnh cuối bãi Đuôi Nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm;
Thanh lảnh đầu hồ Cổ Ngựa, tháp cao tăng còn hé cửa tò vò.
Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng;
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co.
Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai phường dệt g ấm;
Sen vũng nọ nảy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò.
Cầm ve gảy lầu thư ánhỏi;
Mõ cuốc khua án kệ rì rù.
Gò Châu Long khi ngọn gió đưa quanh, hồi thú cổ thẳng kề bên mái trúc;
Non Phục Tượng lúc vầng trăng hé nửa, tiếng hàn châm nghe cách dải sông Tô.
Người ngoạn cảnh thẩn thơ đòi đoạn;
Khách thâu nhàn lai láng từng khu.
Mảnh áo tơi lớp xớp trong mưa, ca thanh thảo quyến đàn trâu ngã Nịnh;
Con thuyền trúc lân la trước gió, khúc thương lang đưa gánh củi chàng Chu.
Vầy cuộc ẩn mọi nghề chẳng thiếu;
Mượn thú vui bốn bạn gồm no.
Cảnh Khán Sơn chưa gác cuộc cờ, lòng thơ đã bồi hồi ban lãnh thỏ;
Làng Vọng Thị còn đông tiệc rượu, tiếng cầm đà não nuột buổi tà ô.
Khách Ngô Sở chợ tây ngồi san sát;
Người Hi Hoàng song bắc gáy phi pho.
Bến giặt tơ người vốc nước còn khuya, gương thiềm đựng trong tay lóng lánh;
Vườn hái nhị kẻ dày sương hãy sớm, túi xạ rơi dưới gót thơm tho.
Ngang thành thị ghé yên hà một thú;
Dọc phố phường tung phong nguyệt hai kho.
Gió hiu hiu dòng Nhị Thuỷ đưa lên, lồng hơi mát tới chùm hoa khóm trúc;
Trăng vằng vặc mái Tam Sơn rọi xuống, đớp bóng trong từng lũ cá đàn cò.
Phong cảnh cũ nhiều nơi thắng lãm;
Triều đại xưa mấy lớp thanh ngu.
Tựa bóng hoa đặt quán Quan ngư kìa đời Long Khánh;
Đè mặt sóng đem đường Dụ tượng nọ thuở Kiền Phù.
Trải Trần trướcđã nhiều phen xe ngựa;
Tới Lê sau càng lắm độ tán dù.
Trộm nhớ thiên bát vịnh du hồ, trong tỉ hứng cũng ngụ lời quy phúng;
Lại nhớ khúc liên ngâm thưởng nguyệt, lúc tiếu đàm dường thoả ý giao phu.
Toà đá nọ ghi câu canh hoạ;
Dòng nước kia dường nổi chén tạc thù.
Năm sau từ nổi bụi tiêu tường, ba thước nước khôn cầm màu hiệu khiết;
Buổi ấy cũng góp phần tang hải, sáu thu trời bao xiết nỗi hoang khô.
Hình cây đá mưa trôi gió giạt;
Sắc hoa chim mây vẩn sương mù.
Chốn trì đàm làm bợn vẻ thanh quang, xuôi ngược những vẫyđuôi khoa đẩu;
Nơi phạm vũ để che màu sảng lãng, dọc ngang trao mắc võng tri thù.
Hương cổ miếu đôi chòm lạnh lẽo;
Đèn viễn thôn mấy ngọn tù mù.
Kênh đâu đâu chảy đến trung sa. lầu túc điểu gió còn sớm quạt;
Sen chốn chốn đã bay về Tây vực, vũng du ngư nguyệt hãy tối mò.
Kêu trị loạn đau lòng con Đỗ Vũ;
Gọi công tư mỏi miệng cái hà mô.
Lũ cày mây lần tưởng bóng nghê, thơ thất nguyệt thở than cùng mục thụ;
Khách điếu nguyệt biếng tìm tăm cá, chữ nam mô bàn bạc với tiều phu.
Nghe xóm nọ rù rì ve nhặng;
Ngắm ghềnh kia thấp thoáng trai cò.
Thú cao lưu chếch mác thế cờ, người nhạo thuỷ ôm cầm khi rạng quế;
Màu yên cảnh bâng khuâng hồn rượu, khách đăng đài gác bút buổi bay ngô.
Chiều phong vị xem dường quạnh quẽ;
Dấu đồ thư ngắm hãy mơ hồ.
Dưới cầu vồng nước chảy mênh mông, đường xưa đua ngựa;
Trên thành trĩ đá xây chớm chởm, bến cũ gọi đò.
Trước cố cung treo nửa mảnh gương loan, vầng trăng he hé;
Sau cổ tự gởi mấy phong da ngựa, đám cỏ lù rù.
Lớp canh dịch người xưa man mác;
Vẻ tiêu lương cảnh cũ thẹn thò.
Áng phồn hoa vì cảnh muốn phô người, người phải khi vật đổi sao rời, cảnh phải chiều người buổi ấy;
Trời thanh lãng có người còn mến cảnh, cảnh có sẵn nước trong trăng sáng, người nên phụ cảnh này ru.
Vừng trăng nọ buổi tròn buổi khuyết;
Ngọn nước kia nơi hoắm nơi nhô.
Tới Mậu Thân từ rỡ vẻ tường vân, sông núi khắp nhờ công đãng địch;
Qua Canh Tuất lại tưới cơn thời vũ, cỏ cây đều gội đức chiêm nhu.
Vũng trì chiểu nước dần dần lặng;
Nơi đình đài hoa phơi phới đua.
Chốn bảy cây còn mấy gốc lăng vân, chẳng tùng bách cũng khoe hình thương lão;
Nơi một bến đã đông đoàn hí thuỷ, tới uyên ương đều thoả tính trầm phù.
Vẻ hoa thạch châu thêu gấm dệt;
Tiếng trùng cầm ngọc gõ vàng khua.
Bãi cỏ non trâu thả ngựa buông, nội Chu đã lắm người ca ngợi;
Làn nước phẳng kình chìm ngạc lặn, ao Hán nào mấy trẻ reo hò.
Mặt đất đùn này thóc này rau, rầu lòng Cô Trúc;
Mặt nước chảy nọ dòng nọ bến, mặc chí Sào Do.
Cây quán kia còn đứng dậy thần uy,đoàn mán tới dám khoe lời tây hữu;
Sen chùa nọ lại bay về phật cảnh, lũ Ngô về từng niệm chữ nam mô.
Dấu linh dị rành rành vẫn sáng;
Mạch hậu nhân dằng dặc bao rò.
Mặt thành xưa đem lại thế kim thang, đất xây phẳng lặng;
Cánh hàn cũ sửa ra hình chỉ trụ, đá xếp xô bồ.
Ghé vùng danh nẻo lợi bấy lâu, cảnh tuy rằng nhỏ;
Song nước trí non nhân mấy chốn, cảnh đã chi thua.
Trải mấy thu từng dựa bóng tàn xanh, thâu cảnh đã vào trong vũ trụ;
Song ngàn dặm còn xa rời bệ tía, góp cảnh còn gọi chốn biên ngu.
Tuy thú vị đã dãi bày ra đó;
Song thanh dung còn trang điểm lại cho.
Nay mừng:
Trời phù chính thống;
Đất mở hoành mô.
Quyền tạo hoá tóm vào trong động tác;
Khí kiền khôn vận lại trước đô du.
Nền hoàng thành đặt vững long biên, ngôi Bắc cực muôn phương đều củng hướng;
Nền bắc trạch xây kề ngưu chử, cảnh Tây Hồ trăm thức lại phương phu.
Chòm hủ thảo chưa qua tuần đom đóm;
Áng tường vân đà cách độ tua rua.
Ngắm nguyệt chiêm từ cấn tượng bốn hào, ống âm dương đà quét bụi;
Xem tuế luật đến di tân bảy tấc, lò thiên địa mới bay tro.
Cơ vãng phục lạnh thôi lại ấm;
Lẽ doanh thâu bớt đã lại bù.
Dưới lục âm vừa sinh khí nhất dương, vạn phẩm đã nhờ ơn khôn tạo;
Trên cửu đạo lại tề ngôi thất chính, bốn mùa đều theo hướng đẩu khu.
Hương khâm kính xâm miền hạo đãng;
Rượu cung càn thấm cõi linh u.
Áng năm mây bày ngọc bạch đôi hàng, thảo mộc hãy ca công Thang, Vũ;
Vang chín bệ nổi tiêu thiều mấy khúc,điểu thú đều vũ đứcĐường, Ngu.
Vẻ hoa lẫn dấu cờ năm thức;
Mặt nước in bóng giáo ba ngù.
Trước huân phong phảng phất cung đàn, làn thâm thuỷ muốn vái lên ngũ bái;.
Dưới ngọ nhật vang lừng tiếng trúc, hình viễn sơn mong rạp xuống tam hô.
Lễ nhạc ấy nghìn thu ít thấy;
Phong cảnh này mấy thuở nào so.
Trên dưới đều rồng mây các nước phải duyên, giọt vũ lộ tưới đôi hàng uyên lộ;
Gần xa cũng cõi bờ non sông một mối, tấm đan thành dung khắp lũ nghiêu sò.
Hơi yêu mị quét dưới cờ thanh đạo;
Áng tường quang tuôn trước ngọn huyền lô.
Rặng đầu ghềnh người mượn chữ vu viên, răn loài hồng nhạn;
Ca cuối vũng kẻ ngâm câu tại chử, nhủ lũ ê phù.
Lời ca ngợi tưởng ngồi trong Chu nhã;
Điệu ngâm nga nghe đứng giữa Nghiêu cù.
Ngẫm nay đà vui thú tạc canh, đành chốn chốn cũng ca đồng vũ tẩu;
Nhớ trước đã thoả loài động thực, hẳn đâu đâu đều bặt quỷ im hồ.
Nay lệnh tiết đã tin điềm thái lãng;
Xin thánh nhân càng ghín chữ dự du.
Ngọn nguồn tuôn dàn rụa mái kia ghềnh, đèn chiếu thuỷ chia dòng Kinh Vị;
Chòm cỏ mọc tần vần bên nọ miếu, trống thôi hoa rẽ khóm huân do.
Nhận giá sắc xét dân phong cần noạ;
Ngắm phong quang soi vật tính thanh ô.
Chốn điểu đài xem cá nhảy chim bay, thâu sĩ lộ nơi thông nơi trệ;
Miền thôn ổ lắng chim kêu gà gáy, lượng nhân gian nơi háo nơi trù.
Tình u uẩn khắp bày trong thị thính;
Hiệu trị bình đành sắp dưới tề tu.
Nơi mạch kia dân tựa ấy làm trời, hang chuột ẩn há chừa nơi cỏ khuất;
Bờ liễu nọ kẻ xây đà vững đất, lỗ kiến đùn khôn chuyển buổi nguồn xô.
Đem phong cảnh lại một bầu chi nhỏ;
Mở thái bình ra bốn bể mới to.
Tôi nay:
Hổ mình thiển lận;
Dại trí thô sơ.
Dư một kỷ yên bề hu lịch;
Ngoài năm tuần thẹn bóng tang du.
Trước phượng đàn đứng sánh hàng loan, trông hồ cảnh tiến một chương ly ngữ;
Bên ngự đạo ngửa trông vầng nhật, nổi thanh sơn mừng muôn kỷ dao đồ.


Chú thích:
(*) Lịch sử: Năm 1800, vua Cảnh Thịnh nhà Nguyễn Tây Sơn làm lễ tế giao ở bên hồ Tây. Quan hữu thị lang bộ hộ là Chương Lĩnh hầu Nguyễn Huy Lượng soạn bài phú này dâng vua.
(**) Nguyễn Huy Lượng: quê ở làng Phú Thị (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội); đỗ cử nhân cuối thời nhà Lê trung hưng; sau làm quan cho triều Tây Sơn; rồi lại được triều Nguyễn bổ dụng làm tri phủ Xuân Trường (nay thuộc Nam Định); bị bức tử năm 1808.

No comments:

Post a Comment

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN